VÕ LẬP PHÚC@Triết Học Tuổi Trẻ
5 năm trước
Lý Luận Về Cái Chết
Không đi tìm chân lý để chết giữa phố đông
Tôi đi tìm lẽ sống chết lặng giữa lòng mình…
Giờ chúng ta hãy nói về cái chết. Chết là sự mất đi sự sống, chết là sự nhắm mắt, chết là việc chuỗi đời tắc nghẽn, chết là phương thức tiêu hoại những thường thức nhân gian, những phố xa con người, những môi cười rạng rỡ và lệ nặng bờ mi. Chết là như thế! Chết là cách nhân giới hay gọi là tạm gác lại một đời để bước chân vào vòng chuyển giao một kiếp mới. Cứ như thế, chết phải lạ sự chấm dứt, không có định danh nào cho nó mang tính bao trùm hơn ngoài hai tiếng “chấm dứt” hay những danh từ đồng nghĩa nhiều biến thể: kết thúc, xong phim, …
Cái chết đặt ra cho loài người tiền lệ của sợ hãi, nó không dung túng cho con người nghiễm nhiên thứ danh phận “sinh vật cấp cao”, cái chết quy chụp con người đồng loạt với vạn vật khác. Cái chết mỗi con người đem lại hệ ý thức sự sống, tức là con người đang sống, và con người sẽ chết, con người không thể bất tuân, chỉ có thể quy phục như bao hổ, báo, cọp, voi, đại bàng, gà trống,… hỗn tạp hữu vật vạn sinh thì cũng trùng trùng hữu vật vạn tử; đột nhiên trong một ý nghĩa nào đó, đích thực cái chết mang lại giá trị hơn nhiều ngoài cảm giác mặc định bấy lâu trong tâm lý đại chúng - sự sợ hãi.
Đa nhận thức về cái chết
Đi tìm cái chết trong những diễn ngôn đa diện
Bồi hồi trở lại cảm thức chủ quan
Cái chết xem ra cũng là khoa học
Hay một dạng thức mỹ học lung linh vô cùng?
Cái chết đi xa hơn nhiều sự đơn thuần như dấu chấm cuối câu. Phạm trù định danh cái chết đã biểu hiện tính khái quát, phức tạp với nhiều biến tấu diễn ngôn thuộc về các khía cạnh đời sống xã hội lẫn khoa học tự nhiên. Nghiên cứu về sự kết thúc chuỗi đời làm người không phải là để nghiên cứu cách chết nào cho cầu kỳ nhất, sang trọng và hình thức nhất, nghiên cứu về cái chết là để đi đến tận cùng chất người của nhân loại, để hiểu ra sự tạo sinh của vũ trụ, để đính chính giá trị của logic con người; nhưng hơn hết, truy nguyên cái chết là để phác thảo một dự đồ đời sống toàn vẹn. Bởi lẽ, sự tôn vinh giá trị sống có ý nghĩa nhất là khi tìm ra được giả thuyết để chứng minh cho tai hại nếu một ngày chuỗi đời sống lạc nhịp, phai phôi khỏi hữu hình thể xác …
Về triết học
Có lẽ không có bình diện nào có thể nghiên cứu sâu xa với nhiều biến thiên, đa bội cầu kỳ nhưng sắc sảo về cái chết như triết học. Sức nặng của triết học nằm ở chỗ nó tung phá mọi nhận định sẵn có, nó phát ngôn những lý tưởng đi ra khỏi nhận thức thời đại thuộc về thiết chế. Triết học gắn kết mọi ngành khoa học khác, triết học là khoa học, là lịch sử, là văn chương, là sinh học, là hóa học, là lượng tử,… với mục đích khẳng định phương diện con người trong những bề sâu kỳ vĩ, những bề rộng thênh thang, những nẻo lối mà chưa bao giờ việc tự thỏa mãn có thể đặt chân tới.
Nói về cái chết dưới lăng kính triết học, một hệ thống đồ sộ những triết thuyết tinh tạo từ Cổ Đại, Trung Cổ; đến Barock, Thế kỷ ánh sáng; đến Hậu Hiện Đại, và cả Đương Đại. Một mặt, triết học gắn kết cái chết với linh hồn. Mặt khác, triết học nới rộng nội hàm nghĩa cái chết, để đưa ra một nhận định chung mang tính tổng quan hơn. Điều đặc biệt của triết học là khi nó chưa bao giờ có thể là tất đúng, nó chỉ là dự cảm khởi phát nên từ nhiều suy lý, suy cảm nơi khối óc nhà tư tưởng. Với triết học, cái chết không nhất thiết phải là sự chấm dứt, ngược lại, cái chết trong triết học là khả năng bắt cầu cho vạn ngàn diễn biến khác nơi sự sống bảo lưu và tiếp tục trỗi dậy.
Seneca - một triết gia khắc kỷ thời La Mã đã nhận định rằng:
“Perhaps you think it is a waste of time to learn something you will need to use only once. But that is the very reason we ought to rehearse: if we cannot test whether we know it, we should be learning it always ... There’s no way to know the point where death lies waiting for you, so you must wait for death at every point ... “Rehearse for death”: he who says this is telling us to rehearse our freedom. One who has learned death has unlearned slavery, for death is above all powers, and certainly beyond all. What does death care for prison, for shackle and for cell? Its gate is ever at liberty. There is but one chain that binds us: the love of life. That, admittedly, we may not discard; yet we must lessen it, lest anything detain us when commanded by our situation, or hinder us from readiness to do at once what must be done someday ... (letter 26)”
“Có lẽ bạn cho rằng chúng ta chỉ tốn thời gian nghĩ về cái chết, vì ta chỉ trải nghiệm nó có 1 lần mà thôi. Nhưng, chính vì thế, ta càng phải suy nghĩ về nó. Nếu ta không thể kiểm tra một điều là ta biết về nó, ta phải luôn để tâm đến nó ... "Nghĩ về cái chết", người nào nói thế tức là biết cách tìm kiếm sự tự do cho bản thân. Vì khi 1 người thực sự biết về cái chết (và không sợ nó), anh ta sẽ vượt qua được lệ thuộc, vì cái chết cao hơn tất cả quyền lực và những xiềng xích khác. Khi cái chết đến liệu bạn còn nghĩ về tù ngục, kham khổ? Cái chết sẽ mở cánh cửa cho tự do. Chỉ có 1 thứ trói buộc chúng ta: tình yêu cuộc sống. Điều đó, ta không thể chối bỏ, nhưng ta có thể làm giảm ảnh hưởng của nó, để khi phải đối mặt với cái chết, nó sẽ không khiến ta mất đi nhuệ khí của mình. Để ta có thể đón nhận cái kết quả (cái chết) mà đằng nào cũng sẽ đến với ta mà thôi.”
<Lược dịch bởi Spiderum.com>
Nhận định của Seneca về cái chết thuộc về một lập luận tương đối bao hàm về cái chết, ông đã gắn kết cái chết với nhiều phương diện quan trọng khác trong đời sống con người: tự do, tình yêu cuộc sống. Song, vì là một triết gia dưới giác độ “khắc kỷ” nên bản thân giá trị của cái chết có phần được tô nhấn hơn so với việc sống. Nhưng chung quy, cách nhìn của Seneca có thể được khái quát là một phát biểu mang tính bước ngoặc về giá trị của cái chết trong suy nghĩ của con người mọi thời đại, bấy giờ hay đương thời.
Platon thì đi xa hơn việc diễn giải về cái chết, mà ông gắn điều này với linh hồn. Theo ông sự tồn tại của linh hồn ở thể xác chỉ là một hình thức bị giam hãm. Vì linh hồn tồn tại trước cả sự tạo thành thể xác, linh hồn thuộc về thế giới “ý niệm”, là sự tồn tại khách quan so với sự hữu hình của đời sống nhân giới. Và theo ông, cái chết không hẳn là sự chấm dứt, mà chỉ là sự chuyển hóa của linh hồn từ dạng thức này sang dạng thức khác, từ thể xác này sang thể xác khác. Dưới lăng kính duy tâm chủ nghĩa, Platon hình thành triết thuyết ý niệm và triết thuyết này cũng mang lại một sức ảnh hưởng với hệ ý thức con người, và với việc đinh danh cái chết dưới một hiện thể khác, Platon thổi hồn vào việc tái lập cái chết ở một phạm trù khác sâu xa hơn nhiều.
Cái chết còn đi xa hơn những triết thuyết đơn thuần. Cuộc đời của một triết gia là hành trình làm hiện hữu lý tưởng nơi lý trí và trái tim, sự có mặt của cái chết mở ra cho cuộc sống nhà triết học cách thức để khẳng định quy mô lý tưởng và tình yêu tự do - thể xác lẫn tinh thần. Điều này lại rất đúng đắn khi nhắc đến Socrates, một trong những trụ cột về triết học giai đoạn Cổ Đại với những tên tuổi khác như Platon và Aristoteles. Cuộc đời của Socrates đi tìm câu trả lời cho những lời tự vấn về hiện hữu và chết đi, tri thức và hiểu biết, tình yêu và hận thù. Nhưng vì sức nặng của những nghi vấn nơi ông mà thiết chế xã hội đã buộc ông tội chết vì gắn ông cho tội truyền bá tà đạo. Socrates đến với cái chết để khẳng định lý tưởng của mình. Cái chết trong con mắt của người dân thành La Mã là tiếng gõ cửa tử thần, là án phạt cho ngu dốt và vô đạo đức; nhưng trong con mắt của chính người tử tù ấy, sức mạnh của cái chết thuộc về sự cứu rỗi - rằng cái chết đã cho giữ lại ở dòng chảy lịch sử một tầm vóc ý thức hệ cao cả, cái chết đã khẳng định sự minh bạch và lẽ sống, cái chết tố cáo mọi án ngữ kiềm thúc con người, cái chết của Socrates định hình nên một giá trị của tự do cùng chân lý, nó cần được nhìn nhận lại trong chiều kích phát triển nội tâm con người hơn là âm thanh của tuyệt vọng và thê lương.
Về văn học
Khác với triết học, văn học có vị trí của riêng nó, nó không mang tính bao trùm tất thảy mọi phương diện khác, mà nó dùng những phương diện đó như một hệ thống công cụ để quy chiếu đến tọa độ cảm xúc con người. Sự phát triển nhận thức về cái chết trong văn học thuộc về phức điệu cảm xúc, tức là nó không đi xa ra khỏi khung vòm nhân bản, mà ngược lại xem xét cái chết dưới thước đo nhân bản nhằm phát triển cho khái niệm cái chết một nhận thức sâu sắc, thúc đẩy đời sống nội tâm trở nên giàu có, gắn kết đời sống ấy với mọi phạm trù khác và rồi đưa ra một bản thảo để hoàn thiện hóa con người.
Cái chết trong văn chương thuộc về dự cảm, thiên hướng cảm xúc với những cung bậc khác nhau. Trong khả năng của văn chương, sự thể hiện cái chết thoát ly khỏi những thực nghĩa tự thân nó, cái chết không chỉ nằm trong tầng nghĩa tăm tối toát ra những uế khí từ bi kịch hay khổ hạnh, cái nhìn của văn chương đa diện hơn, với cơ chế duy cảm, duy mĩ; do đó, trong địa hạt này, cái chết là sự thể hiện cho tình yêu, sự trinh bạch, là cách thức gìn giữ ở bản thân mỗi người thứ “khí vị thanh tao” (cách dùng từ của Thạch Lam), cái chết cũng là cái đẹp - đẹp ở nhân cách và hình thức trong cảm quan ngôn ngữ nơi nhà văn. Với ngòi bút văn học, cái chết còn khơi vẫy tính phản ánh - tố cáo, sự hy sinh của một nhân vật trong văn phẩm là đường lối cùng phương cách tái hiện cuộc sống dưới lăng kính chủ quan tác giả nhằm định hình giá trị thực tiễn trong chừng mực mà một cuộc sống “nên là và phải là”.
Hành trình văn chương của nhân loại trải qua sự cạnh tranh khắc nghiệt ở các tư tưởng chi phối hệ ý thức qua từng giai đoạn văn học với. Nổi bật trên phông nền văn hóa ấy, Shackspeare thổi vào văn chương nghệ thuật sự trù phú của vốn từ, khả năng dụng ngữ mà ông đem lại đã đi ra khỏi giới hạn thời không để hình thành xu hướng phát triển lý tưởng cá nhân với tầm cỡ nhân văn sâu rộng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển văn học sau này. Có thể nhận thấy ở những vở kịch Shackspeare viết luôn trong chừng mực sự tương quan đến cái chết. Mỗi vở kịch với bản chất tự thân nó (hài, bi, chính kịch), xúc cảm của tác giả (yêu, ghét, xót xa, oán hận,…), và lĩnh vực đời sống với đa phương nhiều mối quan hệ nó thể hiện (tình yêu đôi lứa, tình mẫu tử, phụ tử, lòng trung quân,…) - mà nó sẽ có những cái chết được phô diễn khác nhau, sao cho ở tại một tâm điểm nào đó của diễn biến kịch, cái chết được đẩy lên làm cao trào, làm minh chứng, làm lời tuyên bố cho bản thân nhân vật. Xem xét một ví dụ tiêu biểu, điển hình cho lối hành văn của Shackspeare với khuynh hướng lãng mạn tương đối đậm đặc - vở kịch Romeo và Juliet. Cái chết của cặp tình nhân đã mở ra những cơ chế cảm xúc vô cùng đặc biệt. Trong đó, cái chết là sự khẳng định cho sự thủy chung son sắc, cho một tình yêu “dẫn dắt bởi ái tình”, cho một lý trí bị che mờ bởi những diễm lệ chân ái. Bàn về bi thương của sự tiêu tàn, nhưng từ ngữ mà Shackspeare dùng vẫn thật đẹp, dồn nén chất thơ thăng hoa nơi trái tim rung những nhịp đồng đều với nhân vật và số kiếp mà họ trải qua. Dự cảm về cái chết trong tình yêu, Shackspeare chỉ ví nó với “bình minh đang kiểng chân trên những đỉnh núi xa mờ”, với “vì sao” và những gì khơi nguồn mạch sống. Sự hy sinh của hai nhân vật không tiêu hoại đi trị giá của lòng người, ngược lại, nó chỉ tô đậm sức yêu đương của tuổi trẻ, sức mãnh liệt của ái tình. Mặt khác, Shackspeare còn căng mở ý nghĩa của cái chết này ra đến tầm vóc tố cáo thời đại bấy giờ với những thù hằn vô lý, những thiết chế đặt điều vi phạm quyền nhân bản, với ngần ấy án ngữ đã trói buột con người đi vào cõi tử để chỉ vì mong nói trọn hai tiếng yêu thương.
Xem xét ở tấm cỡ thế giới là vậy, xoay chuyển về văn chương cục bộ Việt Nam, cái chết cũng thể hiện một vị trí đáng có của nó. Cách thức tiếp cận vấn đề này trong văn ta cốt lõi là để đẩy mạng sức tác động của giá trị nhân văn. Yêu thương con người là khi mỗi nhà văn thể hiện giá trị của sự sống bằng cách dẫn dắt độc giả nhìn thấy thê lương cảnh tượng khi mà con người ta phải đối diện với sự chết đi chứ không thể tiếp tục việc sống được nữa. Văn ta không thiếu gì những bàng hoàng, thảm thương của cảnh tượng sự sống “le lói” với những “tao đoạn” (từ dùng của Kim Lân) khủng hoảng đời người, là nạn đói cấu rỉa triệu đồng bào, là những thiết chế không gì khác ngoài việc dồn người ta đi đến tự kết liễu chính mình mà vốn đã được thấy qua thứ bả chó Lão Hạc ăn, qua vết dao và cái nhảy đành đạch của Chí Phèo, qua cái bầu trời tối tăm, đen như số kiếp chị Tí…
Cái chết trong văn chương không gói gọn trong việc đẹp ở hình thức, có những cái chết lãng mạn và được ngoa dụ qua sự chiết khấu từ ngữ nhằm để tạo lập những cảnh trí trong tưởng tượng người đọc; nhưng cốt lõi hơn cả, cái chết trong văn chương là sự mô tả bất lực của con người, bi kịch của nhân sinh. Bi kịch là có thực, và sự thực ấy được tái hiện đa diện qua nhiều biến cố và không gian nghệ thuật, dưới những “hình thức kiến tạo” thuộc về văn chương hiện thực phê phán của Nam Cao, văn chương trào phúng của Vũ Trọng Phụng,… Thế mới thấy, nhận định về cái chết trong văn chương vừa nới giãn về bề rộng, lại vừa bất tận về chiều sâu, cốt là để hình thành những diễn ngôn mà ở đó, mỗi nhận thức đa chiều về cái chết được khơi dậy - rằng cái chết không chỉ là cảnh tượng đáng sợ, hay sự huyễn hoặc bấy lâu về địa ngục; cái chết còn là sự giải thoát, còn là lời tuyên bố, còn là tiếng thương cảm, còn là giọng điệu thần bí của giá trị đời người. Cái chết đi vào văn học như là một lối thoát mà chỉ những ai đủ can đảm trên đại lộ đi tìm thuần hầu nhân bản cao đẹp mới có thể tìm thấy nó.
Về pháp lý
Xin thứ lỗi với quý vị độc giả về khi người viết không có kiến thức tương đối ở lĩnh vực này, nên chỉ có thể nói ra những nghĩ suy sau khi đã có quá trình tìm hiểu và cân đo kỹ càng để viết nên đôi dòng sau!
Trong những lĩnh vực đang được bàn bạc và đề cập đến, có lẽ giá trị cái chết trong pháp lý là tiệm cận nhất với quan niệm đại chúng, rằng cái chết đơn thuần là sự dừng lại của chức năng sinh lý cơ thể. Tim ngừng đập, khí quản tắc nghẽn,… Sự có mặt của cái chết đem lại tính răn đe cho xã hội, vì nó là bản án cao nhất cho mọi sai lầm và hành vi tác động đến cộng đồng, không thể phủ nhận rằng, nhờ có tính “trần trụi” của phạm vi nghĩa cái chết trong pháp lý, mà xã hội được giữ gìn trong khuôn mẫu với chừng mực đáng có. Vạch trần ra ranh giới của một người công dân và một kẻ tội phạm, cái chết đem lại sức ảnh hưởng đến ý thức hệ quần chúng, nếu thiếu đi phạm vi nghĩa của cái chết trong pháp lý, có lẽ một tuyệt đại bộ phận lực lượng xã hội sẽ đi theo quán tính bản năng của lòng tham, đố kỵ, ganh đua,… mà không cần giữ cho mình nỗi lo sợ của án tử, của kẻ tử tù.
Lồng ghép cái chết với đời sống đương đại
Chúng ta đã tìm ra được sự hình thành cơ bản của danh từ cái chết với những mối tương quan cơ bản thuộc về một số lĩnh vực tiêu biểu. Tất nhiên vẫn còn một bộ phận tương đối nữa các lĩnh vực khác quan niệm cái chết trong từng địa hạt khác nhau vận động theo chiều hướng nghiên cứu cũng như mục đích hay đối tượng quan tâm của các lĩnh vực đó, như: tôn giáo, kinh tế, giáo dục,… Song, bài viết chỉ giới hạn tại ba bình diện như trên là vì mục đích chú trọng hơn ở phần cuối này - việc lý luận xem cái chết có giá trị ra sao trong đời sống xã hội hiện nay.
Có thể khẳng định rằng, chưa bao giờ như trong kỷ nguyên hiện đại, cái chết trở thành một “xu hướng”, vượt ra khỏi những sẵn có về phát triển khoa học - công nghệ, những phong trào khởi xướng về bình đẳng,… Nhìn chung, thời đại mới vẫn không khỏi đưa người ta vượt ra khỏi quy luật của cái chết, ngược lại, nó còn trở thành biểu tượng cho khả năng hình thành nhiều bế tắc khác có mặt trong nội tại xã hội đương thời.
Người ta chết đi vì những áp lực ngoài kia, rằng người ta cần mưu sinh và đắn đo do dự cho những hoạch định tương lai; người ta chết đi vì những đam mê không thành, ràng buộc cho những ước mơ bị gắn vào áp lực gia đình; người ta chết đi vì sự nhận định chính mình bất tài; người ta chết đi vì quán tính của thời đại ngộ nhận độ tuổi phải thành công mà nếu chưa đạt được nó tại một giới tuyến, người ta xác lập mình là kẻ thất bại - do đó, người ta phải chết; người ta chết đi, trong thời đại này, vì hệ thống con điểm bị giới hạn ở số 10; người ta chết đi vì những đánh giá sai lệch mà bản thân thiết chế đương thời đang ghì chặt lấy. Có lẽ, sự thiếu sót lớn nhất của con người hiện nay nằm ở việc người ta không thấu đáo nhìn lại con đường mình đang đi để rút ra cho mình một lời đồng cảm cho chính bản thân, đồng cảm vì bản thân đang chịu những áp lực cũng như thế hệ bao đời đi trước cũng chịu đựng, chỉ là sự biểu hiện của chỉnh thể vô hình mang tên “áp lực” ấy hiện ra ở hình hài riêng biết. Phải biết đồng cảm để biết trân trọng bản thân mình, và hiểu rằng sự sống đang có là vô cùng quý giá. Việc đồng cảm với bản thân mình không vì mục đích nào khác là để thông tuệ một trí não mẫn tiệp trước khi đưa ra mọi lựa chọn, trong đó, có thể là lựa chọn quyết định nên cái chết và sự sống. Cần thiết tách bạch việc đồng cảm và việc thui chột ý chí cầu tiến ở con người. Có thể hình dung rằng, ý chí cầu tiến là vecto định hướng tiến thẳng lên nhằm để tiếp cận những ước mơ và mong muốn cá nhân; trong khi đồng cảm là giá trị tối thiểu, mà ở đó, con người tự đánh giá hài hòa chính mình để không rơi sâu hơn nữa và tiếp tục quá trình thực hiện việc cầu tiến. Đồng cảm là bệ đỡ cho con người khi vô tình hay vì một nguyên do nào đó không dành được thắng lợi trên con đường cầu tiến; là bệ phóng để trang bị cho tinh thần con người một động cơ thúc đẩy họ tiến lên mạnh mẽ hơn trên chu kỳ vận động đi lên chạm đến ước mơ. Cơ sở hình thành nên một tuyệt đại trường hợp những cái chết trong đời sống hiện nay bắt nguồn từ đó.
Có lẽ chưa khi nào như hiện giờ, điều dẫn đến cái chết lại trở thành vô cùng căn bản, việc con người ta từ bỏ mạng sống bỗng nhiên trở nên đơn giản đến lạ thường, không khó khăn hay nhọc sức. Cái chết bình thường. Cái chết đơn giản. Cái chết như một phần thiết yếu của đời sống. Học sinh chết đi vì áp lực. Tử tù phải chết vì phạm tội nguy hiểm cho xã hội,…
Nhưng câu hỏi đặt ra, việc con người trong một thời đại mới sống với cái chết như điều khả dĩ như thế, liệu có đang phản ảnh một thực trạng cần quan tâm không? Bản thân người viết phải khẳng định rằng: CÓ!
Chúng ta không lý luận đến cái chết ở phạm trù quy luật sinh học - điều cần quan tâm là phải phân lập về cái chết trong trường thời đại, tức là mối tương quan gốc rễ giữa cái chết và những vấn đề gốc rễ xã hội đương thời đang đối mặt.
Dư luận gần đây có lẽ không còn quá xa lạ đến sự kiện cái chết của George Floyd. Anh là một người da màu chết đi dưới khuỷa gối người cảnh sát da trắng giữa sự kêu la, thảm thiết rên rỉ. Không bao giờ tiếng nói có tác động to lớn đến thế cho đến khi nó được cất ra trong hoàn cảnh nhất định. Tiếng nói níu kéo tâm hồn con người, níu kéo sự sống cho chính mình. Những tiếng nói không hoàn chỉnh, tiếng nói vô giá trị vì anh là người da màu. Cái chết của cá nhân không ảnh hưởng đến chu trình sống của cả thế giới, nhưng điều quan trọng hơn cả là hình thức hay căn nguyên của cái chết đó đang đặt ra những biến cố cần bàn giải và luận lý. Cái chết của anh kéo theo những biểu tình rầm rộ, những con đường chật nghẹt hơi thở của đám đông, những tối om nơi ánh đèn Nhà Trắng, những trì trệ của công tác kinh tế,… Một cái chết, một triệu, trăm triệu tác động. Không nhất thiết sự chết đi đó là của con người, da trắng hay da màu, của đàn ông hay đàn bà; thậm chí cái chết của một con vật cũng có thể phản ánh những thặng dư trong góc tối đời sống và tiến trình phát triển xã hội. Chú voi đang mang trong bụng đứa con, vì đói, vì khát, vì sự cô độc, vì bản năng làm mẹ, vì sự sống, vì niềm tin lật ngã chết rủ rượi dưới dòng sông vì quả dứa cày lựu mìn. Khổ đau mà cái chết không thuộc về con người hay loài vật, ấy là cơ chế nội tại của cái chết, rằng bao giờ cái chết cũng sẽ mang tính đau thương, thực tế là vậy, cái chết luôn có cho nó dự phận vào những đau đớn. Thậm chí nó có cao cả đến đâu, chết vẫn luôn là bi kịch nếu nó tác động đến số đông con người và chúng làm họ thấy trong tim đang mất mác một điều gì.
Những cái chết mang chức năng phản ảnh. Bên trên là những điều ví dụ thực tiễn nhất. Cái chết phản ảnh đa chiều một thực thể vô cơ xã hội. Chúng đặt ra vấn đề và sứ mệnh của cộng động là thực hiện quá trình giải quyết vấn đề đó. Thiếu đi những cái chết, làm sao ta biết được rằng sau những trăm năm mà vốn dĩ chế độ phân biệt chủng tộc đày đọa con người, ngay tại thế kỷ này, xướng danh như tân thời và hiện đại, vẫn còn lưu giữ một hoạt tính phân biệt, lại là trong tâm trí của những con người lựa chọn ngành nghề giữ gìn an ninh xã hội? Thiếu đi những cái chết, làm sao ta thấy được, nhân loại đang mất đi khả năng chịu trách nhiệm. Những khu rừng ngoài kia màu xanh phủ nắng, những dòng suối trong veo mát lánh, những ngọn cây đương say mầm trĩu quả - ành ành với cần cẩu và máy khoan, máy nghiền và máy kéo, con người triệt phá và dựng nên hàng loạt công trình tự tôn cho danh xưng hiện đại hóa - để rồi khi con vật ấy đến nhờ sự bao bọc của sự hiện đại nơi con người, con người cho nó là đe dọa, con người tiêu diệt lấy nó. Nghịch lý nằm ở chỗ, con người biết cướp đi nhưng con người không bao giờ nhìn thấy sự mất mác - vì sự mất mác đó không phải của con người, con người cần một lượng đủ cho mình và quan tâm đến lượng mình thiếu, chứ không bao giờ thấy về mất mác trong một quy mô khái quát - mà vốn dĩ, ở quy môn này, sự mất mác mà con người gây ra sẽ tác động đến lượng đủ mà con người đang có và thậm chí tước đoạt lấy lượng này để bù cho sự mất mác vĩ mô. Cái chết cần tồn tại để hình thành cho những công dân toàn cầu một giác quan mới, giác quan về thời đại. Cái chết dạy cho con người thấy rõ sự thiếu sót của quá trình phát triển. Cái chết dự phần vào thời cuộc để đánh thức ở xã hội việc cần tái lập lại định luật và xem xét lại ở trong trái tim mỗi con người đương thiếu sót gì.
Nhưng cái chết không phải là mục đích cuối cùng, lại càng không thể là giá trị vinh quang. Cái chết mang tiêu chuẩn của sự phản ánh và tố cáo, nó thúc đẩy sự tái tạo quan điểm và tái tạo hành vi với những chuẩn mực tiến bộ hơn; nhưng cái chết không thể can dự vào quá trình thực thi, tức là nó không trực tiếp tạo ra những biến đổi, nó không trực tiếp tham gia hay dự phần vào cuộc cách mạng trong tư duy thời đại. Do đó, không thể sử dụng cái chết là hình thức duy nhất để khẳng định vai trò và vị thế của những lẽ phải. Vì bản thân sự chết đi chỉ là hồi chuông cảnh giác chứ không phải tập hợp các chuyển biến sau đó để làm đột khởi một sự tiến bộ trên bề mặt chung của thời đại - nơi vốn đương bao hàm những sai lệch cần điều chỉnh và tái kiến thiết. Xã hội hiện đại cho chúng ta nhiều hơn các khả dĩ để không còn bị gò bó trong khuôn khổ của thiết chế, sự bất bình đẳng tột độ hay khủng hoảng về việc không thể lựa chọn cho mình con đường phát triển. Quy chuẩn của thời đại đòi hỏi sự có mặt của những con người thời đại. Ấy là những cá nhân tác động trực tiếp đến việc đổi thay vì phát triển, chứ không còn là cá nhân hay tập hợp những cá nhân chỉ muốn chết đi để khẳng định sự sai lầm từ phía đại chúng. Cái chết mang lại những tác động đến nhận thức, nhưng lựa chọn nó không phải là phương pháp tối ưu bởi vì cộng đồng luôn có trong đó tính chất tạm thời, tức là tính giai đoạn - bởi vì không có cái chết của ai có thể triệt để khiến toàn bộ máy Nhà nước, toàn thể cư dân trực tuyến, cùng đồng loạt yêu cầu giải quyết thực trạng suy giảm ở chiều hướng tiêu cực trong xã hội. Do đó, giá trị cốt lõi không nên là việc chúng ta lựa chọn chết đi ra sao hay như thế nào, mà đó nhất định phải là việc chúng ta lựa chọn đổi thay như thế nào và hành động ra sao cho sự đổi thay ấy. Một học sinh có thể lựa chọn việc tự kết liễu để thoát khỏi áp lực học tập, áp lực gia đình, áp lực thành tích; bạn ấy muốn sự xót thương của những người xung quanh, bạn ấy muốn tố cáo tội lỗi của họ - cái chết ấy sẽ tạo ra ảnh hưởng, đó là cơn xung chấn tâm lý rất có ảnh hưởng đến sự quan tâm của toàn thể cộng động, những người có quen biết bạn ấy, và đặc biệt hơn cả là những người thân của bạn. Một người chính trị gia có thể lựa chọn việc chết đi để phản ánh toàn xã hội về tính bất ổn của bộ máy Nhà nước, sự quan liêu và các khoản thu chi bất chính lọt chỏm vào túi tiền cá nhân,… Tất cả cái chết ấy đều có tác động một cách nhất định đến ý thực hệ xã hội. Tuy nhiên, chúng chỉ đủ tạo ra xung chấn và vài đợt dư chấn hạn chế, chúng không thể tạo ra một tiềm lực nội tại thúc đẩy liên tục và lâu dài để đổi thay những sự thật không đúng đắn. Giáo dục sẽ vẫn tiếp tục là giáo dục thành tích, giáo dục con điểm, giáo dục ganh đua,… Chút ít điều chỉnh để ổn định dư luận không mang lại một hệ quả bao trùm mà chỉ nhỏ giọt sự thấu thị, “rút kinh nghiệm” và “hứa hẹn” điều chỉnh. Chính trị sẽ vẫn là chính trị và quan liêu sẽ vẫn là dự phần tất yếu vào mọi hoạt động Nhà nước. Do đó, điểm đến của một cuộc đấu tranh tiến bộ không nên chỉ dừng lại ở việc tố cáo với đỉnh cao là cái chết - mà đích thực phải là sự sống để khẳng định lý tưởng.
Sống là quá trình, còn chết là điểm đến. Sự ảnh hưởng nội sinh mang tính chất hạt nhân phải là quá trình mà ở đó con người tạo ra những rung chấn về sâu và xa, lâu dài làm đổi thay và đốc thúc sự hiểu biết của thời đại mình sống chạm đến chân lý; quá trình đó có thể không hoàn tất khi một đời người kết thúc vì lý do không mong muốn, nhưng sự tác động từ việc tinh kết các giá trị trong quá trình người đó sống sẽ vẫn liên tục được nối tiếp bởi nhiều người - một cộng đồng người chung ý chí với tính đa nhận thức về cùng tâm điểm vấn đề. Sự sống là quá trình mang lại cho con người ý nghĩa của cái tôi, bằng cách nỗ lực đấu tranh cho những điều đúng đắn, con người thấy rõ được mình là ai và sự tồn tại của mình, rốt cuộc, đã đem lại được những gì. Chính lẽ ấy, sự sống không chỉ đơn thuần gắn kết thời đại hay xã hội mà nó còn có ý nghĩa với cá nhân mỗi chúng ta, nó phô diễn ở chúng ta mọi năng lực và đẩy mạnh ý chí cầu khiến ta đi tìm đến lý tưởng, chân lý, tri thức và toàn hảo. Mặt khác, tuy không phủ nhận vai trò của cái chết ở những bình diện nó đem lại, những ý nghĩa chừng mực nó đã cống hiến cho tri thức hệ ngày nay. Nó đã đi qua nhiều biến cố và là lựa chọn cho lời biện thuyết bằng lương tri ở nhiều con người có tầm vóc lịch sử ngày trước và cái chết, thành kính gọi là sự hy sinh, của họ đã lay động đến trái tim nhân loại và nhiều dân tộc. Nhưng mọi trị giá đều cần có khả năng thích ứng với độ giãn nới do nguyên tắc thời đại đem lại, thời đại là sự “xê dịch” những phương thức; chân lý là gốc rễ nhưng con đường đi tìm chân lý là những lệch pha, xung năng, tái tạo liên hoàn buộc ta phải luôn nghĩ suy nhìn nhận thành quả đã có trước khi đem ứng dụng nó vào dòng chảy đương đại. Ở một giai kỳ khi vốn dĩ đã tiệm cận sự tiến bộ với nhiều thành tựu tương đối và ở đây, ngay lúc bạn đọc bài viết này, xã hội vẫn đang cố gắng lắng nghe tôn trọng nhiều tiếng nói - nhưng trước hết tiếng nói đó phải có sự đúng đắn chân chính, phải có tầm vóc và hiểu biết cơ bản - thì không có lý do gì mà mỗi chúng ta không dùng thuận lợi đó để tiếp tục đấu tranh cho bước tiến thời đại chạm đến ngưỡng ý thức có tầm vóc hơn. Không có lý do gì chúng ta lựa chọn việc chết đi để chỉ vì ta muốn thay đổi xã hội. Chỉ có sự sống mới mang lại khả năng thay đổi, chỉ có sống mới có tiếng nói, chỉ có sống mới có nỗ lực đấu tranh, chỉ có sống mới hình thành nên những giá trị thặng dư làm đà cho đổi thay và chính nghĩa. Khi con người còn sống thì con người còn có thể quy hoạch sự hiểu biết, ý tưởng hay lẽ sống nào đó trở thành chân lý và nếu con người cùng sống, con người sẽ còn có thể tiếp diễn một vòng châu tuần đi vào bản ngã của mình, tiếp cận bản ngã của đồng loại để làm việc sống trở thành mô thức của sự toàn diện nhân sinh, tri giác đa chiều, xúc cảm có độ sâu.
Đừng cố phải biến mình thành Sokrates bạn ạ, vì ông ấy đâu tự mình lựa chọn việc chấm dứt quá trình sống và truy vấn của bản thân đâu. Nếu ông ấy có thể tiếp tục việc sống của mình, có lẽ nhân loại đã có một tập hợp những lý lẽ và câu hỏi của danh nhân được biết đến như nhà tư tưởng vĩ đại của nhân loại rồi.
Bạn luôn là giá trị của đời sống này bạn à. Hãy nhìn vào gương đi, bạn có thấy gì không, có người chiến binh đang nhìn vào bạn kia kìa! Đời sống vốn là đấu tranh, không gì khiến đấu tranh trở nên nhàn rỗi và đẹp đẽ, người ta chỉ có thể khiến nó trở nên ý nghĩa và có tầm vóc. Bạn là người làm nên điều đó!
Tác Giả: Võ Lập Phúc
Kết bạn và theo dõi facebook của tác giả tại link: https://www.facebook.com/lapphuc.vo/
--------------------------------
Bạn đam mê viết lách, nhận giải thưởng (tổng trị giá 8 triệu VNĐ / tháng, sách, chứng nhận Social Impact Awards) và muốn được tạo thương hiệu cá nhân tới hàng triệu người trong cộng đồng của YBOX.VN? Xem chi tiết tại link: http://bit.ly/TrietHocTuoiTre-Info
(*) Bản quyền bài viết thuộc về Cuộc thi Triết học Tuổi trẻ do Ybox đồng sáng lập và tổ chức. Khi chia sẻ, cần phải trích dẫn nguồn đầy đủ tên tác giả và nguồn là "Tên tác giả - Nguồn: Triết Học Tuổi Trẻ". Các bài viết trích nguồn không đầy đủ cú pháp đều không được chấp nhận và phải gỡ bỏ.
----------------------------
Hợp Tác Cùng YBOX.VN Truyền Thông Miễn Phí - Trả Phí Theo Yêu Cầu tại http://bit.ly/YBOX-Partnership
5,529 lượt xem, 4,865 người xem - 4870 điểm